Hotline :
098.212.1816
 
 
 
   Trang chủ    Nhà ở Nhật Bản
Nhà ở Nhật Bản
Cá Koi - phần 01
  Mã sản phẩm
  Chất liệu
  Chiều cao
  Chiều rộng
  Chiều dài
  Giá bán
650
0 VND
 
Mô tả sản phẩm

 Cá Koi – phần 01.

( Nguồn: Wikipedia)

Koi () hoặc cụ thể hơn là nishikigoi (錦鯉), là tên gọi thân mật của biến thể cá có màu của giống cá chép Amur (Cyprinus rubrofuscus), được nuôi cho mục đích trang trí.

Có rất nhiều giống cá koi cảnh, bắt nguồn từ việc lai tạo cá ở Niigata, Nhật Bản vào đầu thế kỷ 19, chúng được phân biệt qua màu sắc, hoa văn và tỷ lệ. Một số màu chính của cá là trắng, đen, đỏ, cam, vàng, xanh, nâu và kem. Loại koi phổ biến nhất là Gosanke, được tạo thành từ các giống Kōhaku, Taishō Sanshoku và Shōwa Sanshoku.

1.    Lịch sử

Cá chép là một nhóm cá lớn được nhìn thấy đầu tiên ở trung Âu và châu Á. Là loài cá nước lạnh, có khả năng sống sót và thích nghi với nhiều vùng khí hậu, điều đó đã cho phép cá chép được nhân giống ở nhiều vùng miền mới, bao gồm cả Nhật Bản.

Các đột biến màu sắc tự nhiên của những con cá chép xảy ra trên tất cả các quần thể. Cá chép lần đầu tiên được lai tạo để gây đột biến màu sắc là ở Trung Quốc từ hơn một nghìn năm trước, nơi mà việc lai tạo chọn lọc cá chép Phổ (Carassius gibelio) đã dẫn đến sự phát triển của cá vàng (Carassius auratus).

Cá chép Amur (Cyprinus rubrofuscus) là một thành viên của họ cá rô phi có nguồn gốc ở Đông Á. Cá chép Amur trước đây được xác định là một loài phụ của cá chép (tên khoa học là C.c.Haematopterus), nhưng gần đây nó được coi như một loài riêng biệt dưới tên C.rubrofuscus. Cá chép Amur đã được nuôi như một loại cá thực phẩm ít nhất là từ thế kỷ thứ năm trước Công nguyên ở Trung Quốc. Các văn bản thời nhà Jin (thế kỷ thứ tư sau Công nguyên) đã đề cập đến cá chép với nhiều màu sắc khác nhau. Ghi chép lâu đời nhất về cá chép màu ở Nhật Bản được tìm thấy trong sách lịch sử Nihon Shoki (Biên niên sử Nhật Bản) được hoàn thành vào năm 720. Nihon Shoki ghi lại rằng Hoàng đế Keikō đã khen ngợi cá chép màu trong một cái ao ở vùng Mino vào năm 94 và Hoàng đế Suiko đã nhìn thấy chúng trong khu vườn của Soga no Umako vào năm 620.

Việc nhân giống cá koi cảnh có hệ thống ở Nhật Bản bắt đầu ở Ojiya và Yamakoshi thuộc tỉnh Niigata (nằm trên bờ biển phía đông bắc của Honshu) vào những năm 1820. Việc lai tạo chọn lọc đã tạo ra cá chép đỏ trước tiên, sau đó đến Asagi xanh nhạt và Bekkou trắng, đỏ và vàng. Giống cá Sarasa, với hoa văn màu đỏ trên trắng, được tạo ra vào khoảng năm 1830, sau đó, là giống Kiuturi có màu vàng. Từ một số ít các giống koi ban đầu này, tất cả các giống Nishikigoi khác đã được lai tạo, ngoại trừ giống Ogon (cá koi một màu, kim loại), được phát triển gần đây.

Thế giới đã không biết về sự phát triển các biến thể màu sắc của cá koi Nhật Bản cho đến năm 1914, khi cá koi Niigata được trưng bày tại một cuộc triển lãm ở Tokyo, từ đó, sự quan tâm đến cá koi lan rộng khắp Nhật Bản. Số lượng các giống cá tiếp tục phát triển, việc lai tạo chéo lặp đi lặp lại đã tạo ra các giống cá đẹp hơn, chẳng hạn như Kōhaku, Taishō Sanshoku và Shōwa Sanshoku.

Sở thích nuôi cá koi cuối cùng đã lan rộng ra toàn thế giới, chúng được bán ở nhiều cửa hàng cá cảnh, với những con cá chất lượng cao. Sưu tầm cá koi đã trở thành một thú vui của xã hội, những người có cùng đam mê tham gia các câu lạc bộ, chia sẻ kiến ​​thức và giúp đỡ lẫn nhau. Đặc biệt, từ thế kỷ 21, một số nhà giàu Trung Quốc đã nhập khẩu số lượng lớn cá koi từ Niigata và giá cá chép chất lượng cao đã tăng vọt. Năm 2018, một con cá chép đã được một nhà sưu tập Trung Quốc mua với giá khoảng 2 triệu USD, mức giá cao nhất từ ​​trước đến nay.

Các từ "koi" và "nishikigoi" bắt nguồn từ các từ tiếng Nhật (cá chép) và 錦鯉 (cá chép có gấm). Trong tiếng Nhật, "koi" là từ đồng âm của , một từ khác có nghĩa là "tình cảm" hoặc "tình yêu", vì vậy koi là biểu tượng của tình yêu và tình bạn ở Nhật Bản.

Cá chép màu làm cảnh ban đầu được gọi là Irokoi ( ) nghĩa là cá chép màu, Hanakoi ( ) nghĩa là cá chép hoa, và Moyōkoi ( ) nghĩa là cá chép có hoa văn, nhưng sau này chỉ còn từ Nishikigoi (錦鯉), được sử dụng ngày nay. Một giả thuyết cho rằng, trong Thế chiến thứ hai, các từ Irokoi và Hanakoi (có thể mang nghĩa tình dục) đã được đổi thành Nishikigoi vì chúng không phù hợp với hoàn cảnh xã hội thời chiến. Một giả thuyết khác cho rằng Nisikigoi, tên gọi ban đầu của giống Taishō Sanshoku được sử dụng nhiều, dần dần trở thành thuật ngữ được sử dụng cho tất cả cá koi cảnh.

2.    Phân loại

Theo Zen Nippon Airinkai, tổ chức hàng đầu trong việc nhân giống và phổ biến cá koi ở Nhật Bản, có hơn 100 giống cá koi được tạo ra thông qua việc lai tạo và mỗi giống được phân thành 16 nhóm. Các giống cá koi được phân biệt bằng màu sắc, hoa văn và tỷ lệ, có một số màu chính là trắng, đen, đỏ, vàng, xanh và kem. Mặc dù màu sắc có thể có là gần như vô hạn, các nhà lai tạo đã xác định và đặt tên cho một số loại cụ thể. Loại đáng chú ý nhất là Gosanke, được tạo thành từ các giống Kōhaku, Taishō Sanshoku và Shōwa Sanshoku.

Các giống cá koi mới vẫn đang được tích cực phát triển. Cá koi ma được phát triển vào những năm 1980 đã trở nên rất phổ biến ở Vương quốc Anh, chúng là loài lai giữa cá chép hoang dã và cá koi Ogon, được phân biệt bởi lớp vảy màu kim loại của chúng. Cá koi bướm (còn được gọi là cá koi vây dài, hoặc cá chép hóa rồng), cũng được phát triển vào những năm 1980, gây chú ý với các vây dài. Cá koi bướm và cá koi ma được cho là không phải nishikigoi thực thụ.

3.    Các giống cá chính:

·         Kōhaku (紅白) là một con koi da trắng, với những mảng màu đỏ lớn trên đầu. Tên có nghĩa là "đỏ và trắng", kōhaku là một trong những giống cây cảnh đầu tiên được trồng ở Nhật Bản (cuối thế kỷ 19).

·         Taishō Sanshoku (hay Taishō Sanke) ( ) rất giống với kōhaku, ngoại trừ việc bổ sung thêm các dấu đen nhỏ gọi là sumi (). Giống cá này được trưng bày lần đầu tiên vào năm 1914 bởi nhà lai tạo cá koi Gonzo Hiroi, dưới thời trị vì của Hoàng đế Taishō. Tại Hoa Kỳ, tên cá thường được viết tắt thành "Sanke".

·         Shōwa Sanshoku (hay Shōwa Sanke) (昭和 ) là một con koi đen với các dấu màu đỏ (hi ) và trắng (shiroji 白地). Shōwa Sanke đầu tiên được trưng bày vào năm 1927, dưới thời trị vì của Hoàng đế Shōwa. Ở Mỹ, tên cá thường được viết tắt thành "Shōwa". Số lượng shiroji trên Shōwa Sanke đã tăng lên trong thời hiện đại (Kindai Shōwa 近代 昭和), đến mức có thể khó phân biệt với Taishō Sanke.

·         Bekko (鼈甲 ) là một con koi da trắng, đỏ hoặc vàng với các mảng màu đen sumi (). Tên tiếng Nhật có nghĩa là "mai rùa", và thường được viết là 鼈甲. Các giống màu trắng, đỏ và vàng lần lượt được gọi là Shiro Bekko (), Aka Bekko () và Ki Bekko (). Nó có thể bị nhầm lẫn với Utsuri.

·         Utsurimono ( ) là một con koi đen với các mảng màu trắng, đỏ hoặc vàng, trong một mô hình màu ngựa vằn. Dạng lâu đời nhất được chứng thực là dạng màu vàng, được gọi là "dấu đen và vàng" ( 黄斑, Kuro ki madara) vào thế kỷ 19, nhưng được đặt tên lại là Ki-Utsuri ( ) bởi Elizaburo Hoshino, một nhà lai tạo cá koi đầu thế kỷ 20. Phiên bản màu đỏ và trắng lần lượt được gọi là Hi-Utsuri ( ) và Shiro-Utsuri ( ). Từ utsuri có nghĩa là in (các mảng màu đen gợi nhớ đến vết mực). Về mặt di truyền, nó giống Shōwa, nhưng thiếu sắc tố đỏ (Shiro Utsuri) hoặc sắc tố trắng (Hi Utsuri / Ki Utsuri).

·         koi Asagi (浅黄) có màu xanh nhạt ở trên và thường là đỏ ở dưới, nhưng đôi khi cũng có màu vàng nhạt hoặc kem, thường ở dưới và trên má. Tên tiếng Nhật có nghĩa là màu xanh lục nhạt, màu hành lá, hoặc màu chàm.

·         Shūsui ( ) có nghĩa là "màu xanh lá cây mùa thu"; Shūsui được tạo ra vào năm 1910 bởi Yoshigoro Akiyama(秋山 吉五郎) bằng cách lai Asagi của Nhật Bản với cá chép gương của Đức. Loại Shūsui phổ biến nhất có màu nhạt, xanh da trời / xám phía trên và màu đỏ hoặc cam (và rất hiếm khi có màu vàng tươi) ở phía dưới và trên má.

·         Koromo () là một loài cá trắng có hoa văn kiểu Kōhaku với vảy viền xanh hoặc đen. Giống này lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1950 như là sự lai tạo giữa Kōhaku và Asagi. Koromo thường gặp nhất là Ai Goromo (藍衣), có màu giống Kōhaku, ngoại trừ vảy, bên trong màu đỏ các mảng màu xanh lam hoặc đen. Ít phổ biến hơn là Budō-Goromo (葡萄 ), có lớp phủ sẫm hơn (đỏ tía) khiến nó trông giống như những chùm nho. Rất hiếm khi được nhìn thấy là Sumi-Goromo ( ), tương tự như Budō-Goromo, nhưng hoa văn là một màu đỏ tía sẫm đến mức nó có vẻ gần như đen.

·         Kawarimono ( ) là một thuật ngữ "bắt tất cả" để chỉ cá koi không thể được xếp vào một trong các loại khác. Đây là một phân loại cạnh tranh và nhiều giống cá koi mới  trong phân loại này. Nó còn được gọi là kawarigoi ( ).

·         Goshiki (五色) là một con koi sẫm màu với hoa văn màu đỏ (kiểu Kōhaku). Tên tiếng Nhật có nghĩa là "ngũ sắc". Nó tương tự như Asagi, màu cơ bản có thể từ gần đen đến rất nhạt, xanh da trời.

·         Hikari-mujiimono ( ) là một loại trong đó toàn bộ cơ thể là một màu và sáng bóng, nó được gọi tên khác nhau tùy thuộc vào màu sắc.

·         Hikari-moyomono ( 模樣 ) là một con koi có các mảng màu trên nền kim loại hoặc hai màu kim loại.

·         Hikari-utsurimono ( ) là sự giao thoa giữa utsurimono và Ōgon.

·         Kinginrin ( 銀鱗) là koi có vảy kim loại (lấp lánh, trông như vảy kim loại). Tên dịch sang tiếng Anh là "vảy vàng và bạc", nó thường được viết tắt thành Ginrin. Lớp vảy lấp lánh của chúng tương phản với lớp da mịn, đều màu thường thấy ở các giống Ogon. Gần đây, những đặc điểm này đã được kết hợp để tạo ra giống ginrin Ogon mới.

·     

Sản phẩm cùng loại
0 VND
 

CÔNG TY CỔ PHẦN CỔ BẢN

Địa chỉ: Cổ Bản - Phường Đồng Mai - Quận Hà Đông - Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 098.212.1816; 098.328.1618 
Email: cobanjsc@gmail.com
Website: www.cobanjsc.com

Tổng số lượt truy cập : 1.353.491
Đang truy cập : 12