|
|
||||||||
|
|||||||||
Mô tả sản phẩm
Nhà vệ sinh ở Nhật Bản. ( Nguồn: Wikipedia) Từ toire (ト イ レ) là một dạng viết tắt của từ tiếng Anh "toilet" được sử dụng chung cho cả bồn cầu và cho căn phòng đặt nó. Một từ được dùng phổ biến khác là otearai (お 手洗 い, rửa tay), tương tự như cách sử dụng trong tiếng Anh Mỹ của từ "washroom”. Từ đơn giản của nhà vệ sinh là benjo (便 所, nơi thuận tiện hoặc nơi thải phân), từ chữ ben (便) có nghĩa là "tiện lợi" hoặc "phân", từ này được dùng khá phổ biến. Nó thường được sử dụng ở các trường tiểu học, nhà tắm công cộng hay những công trình công cộng khác, nó không được cho là bất lịch sự, mặc dù một số người có thể thích dùng một từ khác tế nhị hơn. Bồn rửa bát đặt trong sàn, bể chứa nước . . . được gọi là benki, bồn cầu là benza, cái bô cho trẻ nhỏ hoặc cho người già, người ốm, được gọi là omaru. Toto, tên viết tắt của công ty Tōyō Tōki (東洋 陶器 Oriental Ceramics), công ty chuyên sản xuất bồn cầu.
Có hai kiểu nhà vệ sinh thường thấy ở Nhật Bản, kiểu lâu đời nhất là kiểu vệ sinh ngồi xổm, hiện nay vẫn phổ biến trong các công trình công cộng. Sau Thế chiến thứ hai, bồn cầu và bồn tiểu kiểu phương Tây mới trở nên phổ biến.
Bồn cầu kiểu Nhật truyền thống là một bồn cầu ngồi xổm - còn được gọi là “Bồn cầu Châu Á”, vì chúng có thiết kế gần giống nhau ở khắp Châu Á. Bồn cầu ngồi xổm khác với bồn cầu phương Tây cả về cấu tạo và phương thức sử dụng, chúng về cơ bản trông giống như một bồn tiểu thu nhỏ được đặt theo chiều ngang của sàn nhà. Hầu hết bồn cầu ngồi xổm ở Nhật Bản đều được làm bằng sứ, trong một số trường hợp đặc biệt, như trên tàu hỏa, thép không gỉ được sử dụng để thay thế. Các bộ phận khác của bồn cầu, như ngăn chứa nước, đường ống và cơ chế xả nước thì tương tự như các thiết bị vệ sinh phương Tây. Việc xả nước được thực hiện qua tay cầm kéo hoặc bàn đạp. Có một kiểu cơ cấu để kết hợp giữa bồn cầu ngồi xổm với bồn cầu kiểu phương Tây, bằng cách khi cần có thể lật cơ cấu này xuống bồn cầu ngồi xổm và sau đó ngồi sử dụng giống như bồn cầu kiểu phương Tây. Ngoài ra còn có các bộ chuyển đổi được lắp đặt cố định trên bồn cầu truyền thống Nhật Bản để chuyển nó thành một bồn cầu có chức năng ngồi theo kiểu phương Tây.
Ở Nhật Bản, bồn cầu có bệ ngồi được gọi là bồn cầu kiểu phương Tây (yōshiki), kiểu bồn cầu này, bao gồm cả kiểu tích hợp công nghệ, hiện nay được dùng phổ biến hơn so với kiểu truyền thống, đặc biệt là những nhà có người lớn tuổi hoặc người khuyết tật, những người sẽ gặp khó khăn hoặc không thoải mái khi ngồi xổm. Nhiều nhà vệ sinh công cộng tại các trường học, chùa chiền và nhà ga xe lửa thì vẫn được trang bị kiểu ngồi xổm.
Bồn cầu hiện đại ở Nhật Bản, tiếng Anh - Super Toilet; tiếng Nhật - Washlet (ウォシュレット, Woshuretto) hay bồn cầu có tính năng làm sạch bằng nước ấm (温水 洗浄 便 座, onsui senjō benza). Ý tưởng bồn cầu có tính năng rửa đến từ phương Tây, bồn cầu đầu tiên tích hợp tính năng này được sản xuất tại Thụy Sĩ bởi Closomat vào năm 1957. Thời đại của bồn cầu công nghệ cao ở Nhật Bản bắt đầu vào năm 1980, với sự ra đời dòng sản phẩm Washlet G. của Toto và từ đó đến nay tên gọi washlet được dùng để chỉ các loại bồn cầu công nghệ cao. Vào năm 1997, sản phẩm Toto Washlet Zoe được ghi vào kỷ lục Guinness thế giới là bồn cầu phức tạp nhất thế giới, với 7 chức năng, bây giờ kỷ lục đó thuộc về sản phẩm khác của Toto: Neorest. Tính đến năm 2002, gần một nửa số nhà riêng ở Nhật Bản có bồn cầu như vậy, vượt quá cả số lượng hộ gia đình có máy tính cá nhân. Mặc dù bồn cầu này thoạt nhìn giống như bồn cầu kiểu phương Tây, nhưng nó có rất nhiều tính năng bổ sung, chẳng hạn như máy sấy thổi, sưởi nắp ngồi, tùy chọn mát-xa, điều chỉnh tia nước, mở nắp tự động, xả tự động, bảng điều khiển không dây, hệ thống sưởi và điều hòa nhiệt độ. Các tính năng này được sử dụng thông qua bảng điều khiển gắn vào bệ ngồi hoặc gắn trên tường gần đó.
Tính năng cơ bản nhất là bồn cầu tích hợp là tính năng rửa, một vòi phun nước có kích thước bằng một chiếc bút chì nằm bên dưới bệ ngồi của bồn cầu. Nó có hai chế độ cài đặt: một để rửa hậu môn và một để dùng vệ sinh âm hộ phụ nữ. Đầu phun cũng có thể tự làm sạch trước và sau khi vận hành. Người dùng có thể chọn rửa hậu môn hoặc âm hộ bằng cách nhấn nút tương ứng trên bảng điều khiển. Nếu chỉ có một vòi phun thì với mỗi chế độ sẽ có vị trí lỗ phun khác nhau trên thân vòi. Nếu có hai đầu phun, mỗi đầu phun dành riêng cho một chế độ. Tính năng sưởi ấm chỗ ngồi cũng rất phổ biến, vì hầu hết các ngôi nhà Nhật Bản thiếu hệ thống sưởi trung tâm.
Hầu hết các bồn cầu công nghệ cao đều cho phép điều chỉnh nhiệt độ nước và áp lực nước để phù hợp với sở thích của người sử dụng. Các nhà nghiên cứu ở Nhật Bản đã phát hiện ra rằng hầu hết người dùng thích nhiệt độ nước cao hơn nhiệt độ cơ thể một chút, nhiệt độ 38°C (100°F) được coi là tối ưu. Vị trí vòi phun có thể được điều chỉnh bằng tay về phía trước hoặc phía sau. Vòi rửa cao cấp có chức năng lựa chọn các hình thức của tia nước, điều này được các nhà sản xuất tuyên bố là có lợi cho bệnh táo bón và bệnh trĩ. Các vòi rửa tiên tiến nhất có thể trộn tia nước với xà phòng để cải thiện quá trình làm sạch. Vòi rửa có thể thay thế hoàn toàn giấy vệ sinh, nhưng nhiều người vẫn chọn cách sử dụng kết hợp cả rửa và giấy. Một tính năng phổ biến khác là máy sấy thổi, được điều chỉnh nhiệt độ trong khoảng 40°C (104°F) đến 60°C (140°F) nhắm mục đích làm khô các khu vực đã rửa.
Các tính năng khác bao gồm nắp sưởi, có thể điều chỉnh từ 30°C (86°F) đến 40°C; (104°F), nắp được trang bị cảm biến khoảng cách, mở và đóng dựa trên vị trí của người sử dụng. Máy sấy không khí và máy khử mùi. Một số sản phẩm có thể phát ra âm thanh để làm thư giãn cơ vòng của người dùng (bồn cầu INAX). Các tính năng khác là tự động xả nước, tự động khử mùi và khử khuẩn bề mặt. Một số mẫu được thiết kế cho người cao tuổi, có bộ phận tì tay và giúp người dùng đứng lên sau khi sử dụng. Tính năng đóng êm của nắp bồn cầu, hoặc ở một số mẫu, nắp bồn cầu sẽ tự động đóng lại trong một thời gian nhất định sau khi xả nước. Tính năng khử mùi nhanh bằng ozone. Tính năng ghi nhớ thời gian sử dụng bồn cầu theo thói quen để làm ấm bệ ngồi trước. Một số bồn cầu cũng phát sáng trong bóng tối hoặc thậm chí có thể có điều hòa nhiệt độ bên dưới bệ dành cho những ngày hè nóng bức. Một cải tiến khác gần đây là các cảm biến thông minh khi có người đang đứng phía trước, nắp sẽ tự động nâng lên nếu có người quay lưng lại bồn cầu hay gập nắp lại nếu người đang quay mặt lại bồn cầu.
Nhiều sản phẩm sẽ phun một lượt nước trước khi sử dụng để ngăn chất thải dính vào trong lòng bồn khi xả nước. Một số sản phẩm khác sẽ phun một lượng nhỏ chất tẩy rửa nhẹ nhằm phá vỡ sức căng bề mặt của nước, mục đích ngăn nước tiểu hoặc chất thải rắn bắn ra trong quá trình sử dụng. Một số kiểu khác sẽ phun nước điện phân sau khi sử dụng để khử trùng lòng bồn cầu. Gần đây, đã có sự phát triển trong việc sử dụng tia cực tím để làm sạch.
Bản hướng dẫn sử dụng bảng điều khiển của những bồn cầu này hầu như bằng tiếng Nhật, mặc dù nhiều nút có ký tự tượng hình, nhưng nút xả thường chỉ được viết bằng chữ Kanji, có nghĩa là người dùng không phải người Nhật sẽ gặp khó khăn khi xác định chính xác vị trí nút cần thiết. Vào tháng 01 năm 2017, Hiệp hội Công nghiệp Thiết bị Vệ sinh Nhật Bản, gồm các công ty Toto Ltd., Panasonic và Toshiba, đã đồng ý thống nhất các biểu tượng được sử dụng trên bảng điều khiển bồn cầu. Các nhà sản xuất bồn cầu có kế hoạch triển khai tám ký tự tượng hình mới trên các mẫu được phát hành từ năm 2017 trở đi, với mục tiêu hệ thống này sẽ trở thành một tiêu chuẩn quốc tế.
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã bổ sung các cảm biến y tế vào những bồn cầu này, nó có thể đo lượng đường trong máu dựa trên nước tiểu, đồng thời đo mạch, huyết áp và hàm lượng chất béo trong cơ thể của người dùng. Dữ liệu có thể tự động được gửi đến bác sĩ thông qua kết nối Internet được tích hợp sẵn. Các phép đo khác hiện đang được nghiên cứu thêm. Bồn cầu vận hành bằng giọng nói cũng đang được phát triển. TOTO, NAiS (một bộ phận của Panasonic) và các công ty khác cũng sản xuất bồn cầu di động để phục vụ du lịch, chạy bằng pin và phải đổ đầy nước ấm trước khi sử dụng. Bồn cầu biết nói chào hỏi người dùng cũng đã bắt đầu được sản xuất. Tuy nhiên, những thiết bị này vẫn còn rất hiếm ở Nhật Bản và thành công thương mại trong tương lai của chúng rất khó đoán định.
Việc sử dụng thường xuyên tia nước áp suất cao tác động vào hậu môn thay cho thuốc xổ, có thể làm suy yếu khả năng tự đi vệ sinh của người sử dụng Washlet, dẫn đến tình trạng táo bón nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, còn có thể gây ra sự vệ sinh quá sạch, tạo điều kiện cho các vi khuẩn khác bám quanh hậu môn, gây ra bệnh viêm da quanh hậu môn. Một số nhà khoa học ở Nhật Bản đã gọi đây là "Hội chứng Washlet" (ウォシュレット症候群, woshuretto shoukougun) hoặc "Hội chứng bồn cầu nước ấm" (温水 便 座 症候群, on-sui ben-za shoukougun). Đã có những lo ngại rằng việc sử dụng bồn cầu có tính năng rửa có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu, làm trầm trọng thêm hệ vi khuẩn âm đạo và gây nhiễm trùng chéo từ vòi phun. Tuy nhiên, những yếu tố này dường như không phải là nguy cơ đáng kể so lợi ích có được, đặc biệt là đối với những người khỏe mạnh.
Bồn tiểu ở Nhật Bản rất giống bồn tiểu ở các nước trên thế giới, và chủ yếu được sử dụng cho nhà vệ sinh nam công cộng hoặc nhà vệ sinh nam có đông người sử dụng. Điểm khác là chúng thường được gắn thấp hơn so với bồn tiểu ở phương Tây. Bồn tiểu nữ chưa bao giờ được ưa chuộng ở Nhật Bản, mặc dù đã có những nỗ lực phổ biến bồn tiểu nữ của công ty Toto từ năm 1951 đến năm 1968.
Nhà vệ sinh ở Nhật Bản có các phụ kiện giống với hầu hết các nhà vệ sinh trên toàn thế giới, bao gồm giấy vệ sinh, chổi vệ sinh,.v.v. Tuy nhiên, có một số phụ kiện dành riêng cho Nhật Bản hiếm khi được tìm thấy bên ngoài Nhật Bản.
Nhiều phụ nữ Nhật Bản cảm thấy xấu hổ khi nghĩ đến việc bị người khác nghe thấy khi đi tiểu. Để át đi âm thanh phát ra từ cơ thể mình, nhiều phụ nữ đã từng xả nước ở nhà vệ sinh công cộng liên tục trong suốt thời gian sử dụng, gây lãng phí một lượng lớn nước. Để ngăn chặn thực tế này, một thiết bị đã được giới thiệu vào những năm 1980, sau khi kích hoạt, sẽ tạo ra âm thanh của nước xả mà không cần phải xả thực tế. Tên sản phẩm này là Otohime (音 姫, Công chúa âm thanh, cũng đồng âm với nữ thần huyền thoại Otohime). Otohime là một thiết bị hoạt động bằng pin được gắn vào tường của nhà vệ sinh hoặc được tích hợp trong một vòi rửa có sẵn. Thiết bị được kích hoạt bằng cách nhấn nút hoặc bằng cách vẫy tay trước cảm biến chuyển động, khi được kích hoạt, thiết bị sẽ tạo ra âm thanh xả nước lớn tương tự như bồn cầu bị dội nước, âm thanh này sẽ dừng lại sau một khoảng thời gian đặt trước hoặc có thể dừng lại thông qua việc nhấn lần thứ hai vào nút. Người ta ước tính rằng điều này giúp tiết kiệm tới 20 lít nước mỗi lần sử dụng. Tuy nhiên, một số phụ nữ cho rằng âm thanh của Otohime nghe có vẻ giả tạo và vẫn thích sử dụng cách xả nước bồn cầu liên tục. Thiết bị này hiện được lắp đặt trong hầu hết các phòng vệ sinh công cộng mới xây dựng dành cho phụ nữ và cả trong nhiều phòng vệ sinh công cộng cũ sau khi nâng cấp.
Trong văn hóa Nhật Bản, có xu hướng tách riêng các khu vực sạch và không sạch. Ví dụ, bên trong ngôi nhà được coi là khu vực sạch sẽ, ngược lại bên ngoài ngôi nhà được coi là không sạch. Để ngăn cách giữa hai khu vực, bạn nên cởi giày dép trước khi vào nhà để giày dép không chạm vào khu vực sạch sẽ bên trong nhà. Trong lịch sử, nhà vệ sinh được đặt bên ngoài ngôi nhà, và người ta phải mang giày khi đi vệ sinh. Ngày nay, nhà vệ sinh hầu như luôn ở trong nhà và điều kiện vệ sinh đã được cải thiện đáng kể, nhưng nhà vệ sinh vẫn được coi là khu vực không sạch sẽ. Để giảm thiểu sự tiếp xúc giữa sàn nhà vệ sinh và sàn phần còn lại của ngôi nhà, tại nhà riêng và cả một số nhà vệ sinh công cộng được trang bị dép đi trong nhà vệ sinh (トイレ スリッパ, toire surippa). Đôi dép được đặt trước cửa nhà vệ sinh, chỉ được sử dụng bên trong và phải bỏ ra khi ra khỏi nhà vệ sinh. Điều này cũng là dấu hiệu cho biết nhà vệ sinh đang được sử dụng hay không. Chúng có thể đơn giản như một đôi dép cao su, dép trang trí in hình các nhân vật anime cho trẻ nhỏ, hoặc thậm chí là dép lông động vật. Một sự nhầm lẫn thường xuyên xảy ra đối với người nước ngoài là quên không bỏ dép sau khi ra khỏi nhà vệ sinh, rồi lại sử dụng chúng những tại các khu vực khác trong nhà, dẫn đến sự lẫn lộn giữa khu sạch và khu không sạch.
Nhà vệ sinh công cộng có sẵn trên khắp Nhật Bản, có thể được thấy trong các cửa hàng bách hóa, siêu thị, cửa hàng sách, cửa hàng CD, công viên, hầu hết các cửa hàng tiện lợi. Một số nhà vệ sinh công cộng kiểu cũ không có cửa, có nghĩa là những người đàn ông khi sử dụng bồn tiểu sẽ có thể nhìn thấy những người đi ngang qua. Bắt đầu từ những năm 1990, đã có một phong trào làm cho nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ và hiếu khách hơn so với trước đây. Số lượng các nhà vệ sinh công cộng có cả bồn cầu kiểu phương Tây hay bồn cầu ngồi xổm ngày càng tăng. Nhiều ga tàu ở khu vực Tokyo và các trường công lập trên khắp Nhật Bản chỉ có nhà vệ sinh ngồi xổm, điều tương tự đối với công viên, đền thờ, nhà hàng Nhật Bản truyền thống và các tòa nhà cũ. Nhiều nhà vệ sinh công cộng không có xà phòng để rửa tay, hoặc khăn để lau khô tay. Một số nhà vệ sinh công cộng được trang bị máy sấy tay để giảm khối lượng rác thải phát sinh từ khăn giấy. Máy sấy tay và vòi rửa tay đôi khi được lắp đặt thêm cảm biến chuyển động như một biện pháp tiết kiệm. Trong một dự án do Quỹ Nippon phát động, 16 kiến trúc sư nổi tiếng đã được yêu cầu cải tạo 17 nhà vệ sinh công cộng đặt tại các công viên công cộng của Shibuya, Tokyo. Shigeru Ban đã thiết kế các phòng vệ sinh được bao quanh bởi kính màu trong suốt, cho phép người dùng đánh giá tình trạng bên trong trước khi bước vào. Vào tháng 8 năm 2020, những phòng vệ sinh này được lắp đặt tại Công viên Cộng đồng Haru-no-Ogawa và Công viên Mini Yoyogi Fukamachi.
Ở Nhật Bản, sự sạch sẽ là rất quan trọng, và một số từ tiếng Nhật có nghĩa là "sạch sẽ" được sử dụng để mô tả vẻ đẹp. Từ kirei (き れ い, 綺麗) được định nghĩa là "xinh xắn, đẹp đẽ, sạch sẽ, tinh khiết, trật tự". Điều này có thể giải thích cho sự thành công của bồn cầu công nghệ cao, ngoài ra còn có một thị trường lớn cho các chất khử mùi và chất tạo hương thơm dễ chịu. Trong điều kiện sống đông đúc của các thành phố cùng với khía cạnh truyền thống nên rất ít các phòng trong ngôi nhà Nhật Bản có khóa cửa, vì vậy nhà vệ sinh trở thành một trong số ít các phòng có sự riêng tư. Một số phòng vệ sinh được trang bị giá sách, mọi người có thể vào đây với một tờ báo, một số phòng vệ sinh thậm chí còn chứa đầy hình ảnh nhân vật và áp phích. Những phòng vệ sinh này, được đặt tách biệt với phòng tắm. Cả bồn cầu ngồi xổm truyền thống và bồn cầu công nghệ cao đều có thể tạo ra sự nhầm lẫn cho người nước ngoài không quen với những thiết bị này. Đã có những báo cáo hài hước về những người sử dụng do chưa quen đã nhấn nhầm các nút trên bảng điều khiển và họ đã bị bất ngờ khi một tia nước phun ra. Nhiều bồn cầu hiện nay có trang bị nắp ngồi cảm ứng lực, nhiều nút đã có nhãn bằng tiếng Anh để giảm sốc văn hóa. Vào tháng 1 năm 2017, Hiệp hội Công nghiệp Thiết bị Vệ sinh Nhật Bản đã đồng ý tiêu chuẩn hóa hình tượng được sử dụng trên bảng điều khiển của các nhà vệ sinh Nhật Bản, nhằm giảm bớt sự nhầm lẫn của du khách nước ngoài.
Tác động môi trường của bồn cầu công nghệ khác với bồn cầu thông thường. Bồn cầu hiện đại sử dụng ít nước hơn bồn cầu kiểu cũ, các tùy chọn tự làm sạch cũng giúp giảm lượng chất tẩy rửa, chúng cũng khiến lượng giấy vệ sinh được sử dụng ít đi hơn. Mặt khác, những bồn cầu công nghệ này tiêu tốn năng lượng nhiều hơn, ước tính tiêu thụ trung bình 5% năng lượng của một hộ gia đình Nhật Bản. Ở các vùng nông thôn, nhà vệ sinh sử dụng rất ít hoặc không sử dụng nước cũng đã được thiết kế, đây được coi là những nhà vệ sinh sử dụng khẩn cấp trong trường hợp động đất. Nhằm mục đích tiết kiệm nước, nước xả bồn cầu còn được lấy từ nước thải của máy điều hòa không khí. Nhiều bồn cầu ở Nhật Bản có khoang chứa nước tích hợp cả chậu rửa tay, nước sạch sau khi rửa tay được dẫn vào khoang chứa để xả nước cho bồn cầu, đồng thời đây cũng là một tính năng tiết kiệm không gian cho các phòng vệ sinh nhỏ.
Toto Ltd. là nhà sản xuất bồn cầu và chậu rửa mặt lớn nhất trên toàn thế giới. Vòi nước cho chậu rửa mặt và các sản phẩm khác liên quan đến bồn cầu được sản xuất bởi Inax và Panasonic. Tổng thị trường tiêu thụ bồn cầu công nghệ cao trên toàn thế giới vào khoảng 800 triệu đô la Mỹ vào năm 1997. Nhà sản xuất lớn nhất là Toto, với 65% thị phần, thứ hai là Inax với 25%. Thị trường chính vẫn là Nhật Bản, Toto báo cáo doanh số bán hàng ở nước ngoài chỉ chiếm 5% doanh thu của hãng và thị trường nước ngoài lớn nhất là Trung Quốc. Ở Mỹ, doanh số bán hàng thấp hơn nhiều so với Nhật Bản, ở Châu Âu, Toto chỉ bán được 5.000 chiếc washlet hàng năm. Số lượng các bồn cầu công nghệ được lắp đặt ở châu Âu đang ngày càng gia tăng nhưng chủ yếu là trong các nhà vệ sinh dành cho người khuyết tật, vì có một số người khuyết tật gặp khó khăn khi tiếp cận vùng hậu môn để tự vệ sinh. Do đó, sự ra đời của bồn cầu có công nghệ làm sạch bằng tia nước và máy sấy thổi cho phép những người khuyết tật tự làm sạch mà không cần sự trợ giúp. Có một số lý do khiến doanh số bán hàng bên ngoài Nhật Bản thấp, một lý do chính là khách hàng phải mất nhiều thời gian để làm quen. Doanh số bán hàng ở Nhật Bản đã chậm lại khi thiết bị này được giới thiệu vào năm 1980. Sau một thời gian làm quen, từ năm 1985, doanh số bán hàng mới bắt đầu cải thiện đáng kể. Một nguyên nhân khác là thiếu nguồn điện gần nhà vệ sinh. Trong khi hầu như tất cả các phòng vệ sinh của Nhật Bản đều có ổ cắm điện phía sau bồn cầu, thì nhiều phòng vệ sinh nước ngoài lại thiếu ổ cắm đó. Tại Úc, New Zealand, Ireland, Vương quốc Anh và nhiều quốc gia khác, các ổ cắm điện bị cấm hoặc hạn chế lắp đặt gần nguồn nước hoặc nơi người dùng có thể bị ướt do lo ngại về vấn đề an toàn. Nguyên nhân cuối, đầu chờ ống thoát ra của bồn cầu, đối với bồn cầu loại S theo tiêu chuẩn Châu Âu là cách tường tối đa 10–15 cm, nhưng bồn cầu Nhật Bản cần ít nhất 30 cm. Vì vậy bồn cầu Châu Âu loại S không thể thay thế một cách dễ dàng bằng bồn cầu Nhật Bản và chúng cũng đắt hơn nhiều so với bồn cầu truyền thống của phương Tây.
Trong thời kỳ Jōmon (1400 trước Công nguyên đến 300 trước Công nguyên), các khu định cư được xây dựng theo hình móng ngựa, với một quảng trường trung tâm ở giữa và có các đống rác xung quanh khu định cư. Trong những đống rác này, người ta tìm thấy phân bị vôi hóa của người hoặc chó, điều này cho thấy rằng những bãi rác này cũng được sử dụng cho việc đi vệ sinh. Các hệ thống cống sớm nhất có từ thời Yayoi (300 trước Công nguyên đến 250 sau Công nguyên), những hệ thống này đã được sử dụng trong các khu định cư lớn hơn, có thể sử dụng kết hợp cho việc đi vệ sinh. Một địa điểm có thể là một nhà vệ sinh sử dụng nước đầu tiên, từ đầu thế kỷ thứ 3, đã được tìm thấy ở Sakurai, Nara. Một hầm chứa khác được các nhà khảo cổ tìm thấy tại địa điểm Cung điện Fujiwara ở Kashihara, Nara, vị trí đầu tiên của kinh thành từ năm 694 đến năm 710. Nhà vệ sinh này được xây dựng trên một hố lộ thiên tương tự như một ngôi nhà. Trong thời kỳ Nara (710 đến 784), một hệ thống thoát nước đã được tạo ra ở thủ đô Nara, bao gồm các rãnh nước rộng 10-15 cm, người đi vệ sinh có thể ngồi xổm bằng một chân ở mỗi bên rãnh.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|